Siêu âm di căn tuyến giáp

Di căn tuyến giáp là nguyên nhân không phổ biến của bệnh lý ác tính tuyến giáp.

1. Dịch tễ học

Di căn tuyến giáp chiếm 1,4-3% của tất cả bệnh lí ác tính.

Di căn tuyến giáp đã được báo cáo trong một số loại ung thư, phổ biến nhất là ung thư biểu mô tế bào thận, phổi, vú và đại tràng . Mặc dù rất hiếm, những thực thể này phải được xem xét trong quá trình chẩn đoán các nhân giáp mới. Không có sẵn dữ liệu về hiệu suất của hệ thống đánh giá nguy cơ siêu âm ở những bệnh nhân có nhân giáp di căn.

Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi đã phân tích lại năm trường hợp di căn tuyến giáp được chuyển đến đơn vị của chúng tôi để đánh giá nhân giáp, tính toán hồi cứu chỉ định FNAC bằng cách sử dụng bốn (AACE, ATA, EU-TIRADS, K-TIRADS) trong số các hệ thống  dựa trên siêu âm được sử dụng rộng rãi nhất cho mục đích này.

 2. Ca lâm sàng: 

  1. Bệnh nhân 1 là một phụ nữ 57 tuổi được theo dõi 3 nhân giáp nhỏ, có vẻ lành tính, được phát hiện vào năm 2005. Bệnh nhân này đã được phẫu thuật cắt toàn bộ thận phải và tuyến thượng thận phải năm 2003 vì ung thư biểu mô thận tế bào sáng nhưng các đánh giá theo dõi về ung thư thường xuyên cho kết quả âm tính. Siêu âm vùng cổ được thực hiện vào tháng 11 năm 2012 cho thấy sự phát triển của một trong ba nốt [Hình. 1 (A)]. Với các đặc điểm siêu âm của nó (Bảng 1), nốt này đã được FNAC, cho kết quả không xác định [Bethesda nhóm III, (ICTC) . Cắt toàn bộ tuyến giáp đã được thực hiện, và nốt này được chẩn đoán về mặt mô học là ung thư biểu mô tế bào thận di căn; hai nốt khác của bệnh nhân là lành tính.
  2. Bệnh nhân 2 là nam 69 tuổi bị ung thư biểu mô tuyến phổi đã trải qua phẫu thuật cắt thùy phổi phải vào tháng 3 năm 2013. Các xét nghiệm hình ảnh theo dõi [CT toàn thân và PET-CT không có gì đáng kể cho đến tháng 4 năm 2015, khi sự hấp thu FDG khu trú được ghi nhận ở thùy trái tuyến giáp. Năm 2005, bệnh nhân đã được điều trị một nhân tuyến giáp đang hoạt động mạnh bằng radioiodine và giữ trạng thái bình giáp kể từ đó. Bệnh nhân được giới thiệu đến đơn vị chúng tôi để đánh giá về nốt mới. Với kích thước và hình dạng siêu âm của nó [Bảng 1 và Hình 1 (B)], FNAC đã được thực hiện. Tổn thương, rõ ràng là ác tính (Bethesda nhóm VI; ICTC TIR5), bao gồm các tế bào biểu mô tương thích với ung thư phổi. Phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến giáp đã được thực hiện và tổn thương được xác nhận về mặt mô học là ung thư biểu mô tuyến phổi di căn.
  3. Bệnh nhân 3 là một phụ nữ 47 tuổi bị ung thư biểu mô tuyến vú thể ống tuyến di căn ( thụ thể estrogen và progesterone dương tính). Năm 2005, cô đã được phẫu thuật cắt bỏ vú phải với bóc tách hạch cùng bên, sau đó là hóa trị bổ trợ. Phẫu thuật tạo hình được thực hiện vào năm 2010 cho thấy các hạch di căn khác ở nách phải, và di căn xương được phát hiện ngay sau đó.
    Những di căn này đã được điều trị bằng một số đợt hóa trị. Vào năm 2014, siêu âm định kỳ do bác sĩ chuyên khoa ung thư của cô đã phát hiện ra một nốt không nghi ngờ, đơn độc ở eo giáp, đang được quản lý chỉ bằng siêu âm. Một siêu âm lặp lại vào tháng 11 năm 2017, do sờ thấy khối cổ, đã phát hiện thêm ba nhân giáp (một ở thùy phải; hai ở thùy trái) và một hạch nghi ngờ cổ phải [Bảng 1 và Hình 1 ( C) và 1 (D)]. FNAC của hạch và nhân giáp thùy phải cho thấy các tế bào biểu mô gợi ý ung thư biểu mô vú di căn (Bethesda nhóm VI; ICTC TIR5). Phẫu thuật — được thực hiện chủ yếu cho mục đích chẩn đoán (sinh thiết hạch, cắt bỏ thùy tuyến giáp) , tế bào học cho thấy sự thâm nhiễm lan tỏa của ung thư Ung thư vú thể ống tuyến.
  4. Bệnh nhân 4, nam 39 tuổi, được bác sĩ tai mũi họng chuyển đến đơn vị chúng tôi vào tháng 11 năm 2017 để đánh giá về chứng khó nuốt mới khởi phát gần đây và sờ thấy một khối cổ trái. Siêu âm vùng cổ cho thấy một nốt rất nghi ngờ ở thùy trái tuyến giáp[Hình. 1 (E)], cùng với các nốt nhỏ khác và một hạch nghi ngờ ở cổ phải (nhóm III).  FNAC của nhân giáp thùy trái và hạch đối bên cho thấy các tế bào biểu mô tân sinh gợi ý một bệnh ác tính nguyên phát không phải tuyến giáp. Do những phát hiện này, phẫu thuật tuyến giáp đã được hoãn lại và yêu cầu chụp PET -CT. Sự hấp thu khu trú thấy ở thành thực quản, và sự hiện diện của ung thư biểu mô tuyến thực quản được xác nhận bằng sinh thiết nội soi.
  5. Bệnh nhân 5 là một người đàn ông 69 tuổi đang được theo dõi tại phòng khám ngoại trú huyết học vì U lympho vùng vỏ nang. Vào tháng 2 năm 2018, một hạch sờ thấy được ghi nhận ở cổ bên. Siêu âm cho thấy tuyến giáp phì đại với các nốt giảm âm ở mỗi thùy. Nhiều hạch nghi ngờ được quan sát thấy ở hai bên. Sinh thiết qua phẫu thuật hạch nghi ngờ nhất cho thấy các mô liên kết và cơ bị thâm nhiễm bởi các tế bào biểu mô ác tính, hoại tử lan rộng và không có mô lympho.  Các dấu hiệu hóa mô miễn dịch [dương tính với cytokeratin (CK) AE1 / AE3, CK8 / 18, CK19, CK7, và yếu tố phiên mã tuyến giáp-1; âm tính với CK20, napsin A, chromogranin A, thyroglobulin, melan-A, kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt, acid phosphatase đặc hiệu ở tuyến tiền liệt, phân tử kết dính tế bào thần kinh, p63, p40 và synaptophysin] được coi là tương thích với di căn từ phổi hoặc có thể là bệnh lý tuyến giáp ác tính.
    FNAC của nhân giáp thùy trái [Bảng 1 và Hình 1 (F)], do nhân viên của chúng tôi thực hiện, cho thấy khối u ác tính (Bethesda nhóm VI; ICTC TIR5) với các tế bào biểu mô kém biệt hóa. CT toàn thân xác nhận sự hiện diện của nhiều nốt đặc ở cả hai phổi, nốt lớn nhất nằm ở đỉnh phổi trái (33 × 24 mm).

Hình 1, Bảng 1.
Hình ảnh siêu âm của các tổn thương di căn:

(A) ung thư biểu mô tế bào thận di căn đến tuyến giáp.

  • Đặc điểm siêu âm: Đặc, không đồng nhất ( trung tâm giảm âm), bờ đều. Kích thước: 9.5 × 8.7 × 17.5 mm.
  • Nguy cơ ác tính được ước tính: AACE: Trung bình; ATA: Trung bình; EU-TIRADS: 4 ; K-TIRADS: 4.

(B) di căn tuyến giáp từ ung thư biểu mô tuyến phổi.

  • Đặc điểm siêu âm: Đặc, giảm âm, Bờ không đều. Kích thước: 13,3 × 17,6 × 20,4 mm.
  • Nguy cơ ác tính được ước tính: AACE: cao; ATA: cao; EU-TIRADS: 5; K-TIRADS: 5.

(C) di căn tuyến giáp(D) di căn hạch cổ nhóm 2 từ ung thư vú.

  • Đặc điểm siêu âm: Đặc, giảm âm, Bờ không đều . Kích thước: 20,3 × 16,9 × 25,9 mm.  Một hạch nghi ngờ cùng bên.
  • Nguy cơ ác tính được ước tính: AACE: cao; ATA: cao; EU-TIRADS: 5; K-TIRADS: 5.

(E) di căn tuyến giáp từ ung thư thực quản;

  • Đặc điểm siêu âm: Đặc, giảm âm rõ, Bờ không đều . Kích thước: 20,7 × 20,8 × 32,3 mm. Các hạch nghi ngờ (hai bên)
  • Nguy cơ ác tính được ước tính: AACE: cao; ATA: cao; EU-TIRADS: 5; K-TIRADS: 5.

(F) di căn tuyến giáp từ ung thư phổi.

  • Đặc điểm siêu âm: Đặc, giảm âm khu trú rõ, bờ không đều . Kích thước: 23 × 22 mm. Các hạch nghi ngờ (hai bên)
  • Nguy cơ ác tính được ước tính: AACE: cao; ATA: cao; EU-TIRADS: 5; K-TIRADS: 5.

 

3. KẾT LUẬN:

Bệnh học

Các vị trí phổ biến nhất của bệnh lý ác tính nguyên phát bao gồm (lưu ý những vị trí này sẽ khác nhau tùy theo khu vực):

  1. Thận: Ung thư biểu mô tế bào thận (được coi là phổ biến nhất)
  2. Phổi
  3. Đầu, cổ
  4. Đường tiêu hóa: Ung thư thực quản, Ung thư đại trực tràng, Ung thư dạ dày
  5. Da: Ung thư tế bào hắc tố
  6. U thần kinh nội tiết
  7. Ung thư đường mật (hiếm)

Đặc điểm về Chẩn đoán hình ảnh

Siêu âm di căn tuyến giáp thường có các đặc điểm sau:

  • Tổn thương giảm âm với giới hạn kém rõ (80%)
  • Không có vôi hóa
  • Kèm theo hạch cổ to(80%)

** Khả năng di căn phải được xem xét trong chẩn đoán phân biệt với bất kỳ nhân giáp mới nào. Điều này đặc biệt đúng ở những bệnh nhân có tiền sử ung thư, bất kể bệnh đã được chẩn đoán cách đây bao lâu và tình trạng hiện tại của bệnh. Tuy nhiên, như được minh họa trong trường hợp 4 và 5, di căn tuyến giáp cũng có thể là dấu hiệu đầu tiên của ung thư chưa biết.

Các hệ thống hiện đang được sử dụng để đánh giá khả năng ác tính trên siêu âm ở bệnh nhân có nhân tuyến giáp là hữu ích, nhưng chỉ dựa trên các đặc điểm siêu âm không thể phân biệt được khối u ác tính nguyên phát và di căn tuyến giáp.
Tuy nhiên, tất cả bốn hệ thống mà chúng tôi đã thử nghiệm đều phân loại các tổn thương di căn của bệnh nhân một cách nhất quán trong số những tổn thương đủ nghi ngờ để cần thiết làm đánh giá tế bào học và trong hầu hết các trường hợp, các phát hiện tế bào học cung cấp hướng dẫn hữu ích cho việc xử trí sau đó, làm nổi bật sự cần thiết của các thủ thuật chẩn đoán bổ sung hơn là cắt toàn bộ tuyến giáp ngay lập tức (phương pháp được chọn trong trường hợp 1, trong đó FNAC là không rõ ràng).

Chú thích:

ICTC (Italian Consensus for Thyroid Cytopathology)

ATA (American Thyroid Association Guidelines).

AACE (American Association of Clinical Endocrinologists).

EU-TIRADS (European Thyroid Imaging Reporting and Data System).

K-TIRADS (Korean Thyroid Imaging Reporting and Data System).

Cùng theo dõi những bài viết khác để bồi dưỡng thêm kiến thức y khoa và thuật ngữ tiếng anh chuyên ngành Y Khoa tại trang chủ anhvanyds.com các bạn nhé

BS. Võ Thị Thanh Hương

Nguồn tham khảo:

https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC6041777/

https://radiopaedia.org/articles/metastases-to-the-thyroid?lang=us

Bài viết khác cùng chuyên mục:

Đánh Giá Động Mạch Chi Dưới Trên Siêu Âm (Ultrasound Assessment Of Lower Extremity Arteries)

Siêu âm các tổn thương khu trú ở gan – Phần 1 (Ultrasound of focal liver lesions – Part 1)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*